Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tai biến mạch máu não là “dấu hiệu phát triển nhanh chóng trên lâm sàng của một rối loạn khu trú chức năng của não, kéo dài trên 24 giờ và thường do nguyên nhân mạch máu”.
Như vậy, trên lâm sàng đây là các biểu hiện bệnh lý gồm phần lớn các trường hợp chảy máu trong não, dưới màng nhện và nhũn não. Ở đây không bao gồm các trường hợp bị thiếu máu thoáng qua hoặc bệnh lý mạch máu não lan tỏa có sự khởi đầu lặng lẽ.
Các trường hợp bệnh lý của tai biến mạch máu não
Tai biến mạch máu não gây nên do những trường hợp bệnh lý khác nhau như chảy máu não, chảy máu não-màng não, chảy máu màng não, khối máu tụ trong não và nhũn não. Các thể bệnh lâm sàng này thường có những diễn biến khác nhau.
- Chảy máu não
Thường gặp ở những người cao tuổi do bị tăng huyết áp đột ngột. Bệnh nhân có các triệu chứng nhức đầu nhất là vào ban đêm. Nhức đầu có thể là cấp tính hoặc mạn tính và có khi chỉ xảy ra ở một bên đầu tương ứng với chỗ sẽ có chảy máu, kèm theo triệu chứng chóng mặt, ù tai.
Một số bệnh nhân có sung huyết ở mặt, chảy máu cam, xuất huyết võng mạc, có tiền sử tê hoặc liệt nửa người, thiếu máu não thoáng qua...
Bệnh khởi đầu có thể đột ngột như ngã vật ra và hôn mê nặng ngay hoặc nhức đầu dữ dội, ý thức u ám rồi chuyển sang hôn mê sâu và nặng, mặt tái nhợt, thở như ngáy, rối loạn phản xạ nuốt và cơ tròn, cơ thể bất động, mất phản xạ giác mạc và đồng tử mắt... Kèm theo đó là triệu chứng liệt nửa người, giảm trương lực cơ, đầu và mắt quay về phía bị tổn thương ở não, giãn đồng tử một bên về phía bị liệt…
Một triệu chứng thường xuất hiện sớm và khi nào cũng xảy ra là tăng tiết dịch ở phế quản dẫn đến ứ đọng đờm giải, rối loạn nhịp thở, nhịp tim, huyết áp động mạch tăng, nhiệt độ lúc đầu thấp nhưng sau đó tăng lên 38-39 độ C, có khi cao hơn; mặt xanh, tím hoặc đỏ; vào tuần thứ ba có thể xuất hiện vết loét ở bên bị liệt, ra nhiều mồ hôi, phù nề… Bệnh tiến triển nặng và khoảng 2/3 số bệnh nhân có thể bị tử vong.
- Chảy máu não-màng não
Chảy máu não-màng não có thể do máu từ não chảy vào khu vực màng não hoặc do máu từ màng não tràn vào não.
Thể não-màng não có bệnh cảnh tối cấp thường bắt đầu đột ngột, nhức đầu, tri thức u ám và hôn mê sâu rất nhanh; có thể phối hợp các hội chứng chảy máu não, hội chứng màng não, hội chứng vỏ não, hội chứng thực vật rất trầm trọng.
Bệnh cảnh cấp cũng bắt đầu bằng chảy máu não, sau một tuần bị rối loạn ý thức nặng, rối loạn thực vật, hội chứng màng não, có thể bị tử vong.
Ngoài ra còn có bệnh cảnh không đầy đủ với các dấu hiệu chảy máu não, biến đổi về màu sắc và thành phần của dịch não-tủy. Thể màng não-não bắt đầu bằng cơn co giật toàn bộ, liên tục, liệt nửa người; sau một tuần các dấu hiệu liệt khu trú xuất hiện rõ hơn.
- Chảy máu màng não
Bệnh khởi đầu đột ngột bằng cơn nhức đầu dữ dội rồi mất ý thức; cũng có thể bắt đầu từ từ, nhức đầu nhiều, nôn, chóng mặt và ý thức u ám dần. Có trường hợp khởi đầu bằng rối loạn tâm thần như lú lẫn, kích động, không có dấu hiệu nhức đầu và nôn nên dễ nhầm lẫn trong chẩn đoán.
Sau đó bệnh cảnh chuyển sang giai đoạn rối loạn ý thức rõ như trạng trái u ám, ngủ gà, hôn mê cạn xen kẽ sự kích thích vật vã, ít gặp hôn mê sâu kèm theo rối loạn thực vật trầm trọng.
Hội chứng màng não biểu hiện bằng nhức đầu, cứng gáy, cứng cột sống, sợ ánh sáng và tiếng động, phản xạ gân-xương bị giảm hoặc mất nhưng cũng có trường hợp quá tăng, ít gặp tổn thương dây thần kinh sọ não.
- Khối máu tụ trong não
Đây là trường hợp máu tụ tự phát trong não. Thể bệnh này cần được quan tâm để phát hiện chính xác vì có thể can thiệp tốt bằng phẫu thuật thần kinh.
Khối máu tụ trong não là một thể đặc biệt của chảy máu não nhưng máu không thấm vào nhu mô não mà thường đọng lại tại chỗ, gây triệu chứng của khối u giả tạo và là hậu quả của huyết áp quá cao.
Triệu chứng thường gặp là liệt nửa người, hôn mê ngắt quãng; có thể hôn mê vài ngày rồi tỉnh, khoảng 10 ngày bị hôn mê lại và sau đó vài tuần sẽ hôn mê nặng. Hôn mê có thể xảy ra vài tuần sau khi đã liệt nửa người, cũng có khi hôn mê chập chờn hoặc không hôn mê.
- Nhũn não
Có hai trường hợp khác nhau là bị tắc mạch hoặc lấp mạch ở các nhánh mạch máu cạn ở não và có thể bị nghẽn ở bất cứ chỗ nào. Thường thấy những hội chứng lâm sàng của vỏ não, vỏ não bị hư hại do phù nề, mô thần kinh lâu ngày bị thiếu máu nuôi dưỡng nên sinh ra nhũn não. Các triệu chứng báo động tùy theo vị trí não bị tổn thương như thất ngôn vận động, rối loạn cảm giác...
Khởi đầu bệnh có thể bị hôn mê và liệt nửa người, trường hợp nhũn não do tắc mạch thì triệu chứng bắt đầu từ từ. Hôn mê xảy ra vừa hoặc nhẹ, các rối loạn thực vật ở mức trung bình với nhiệt độ và nhịp thở hơi tăng. Thường từ 2 đến 10 ngày sau giai đoạn cấp tính, bệnh nhân được phục hồi dần nhưng vẫn còn bị một số di chứng. Trong giai đoạn cấp tính, phải cố gắng đề phòng các biến chứng do nằm lâu, liệt nửa người không toàn bộ, không thuần tuý, không đồng đều.
Chẩn đoán tai biến mạch máu não
Cần tìm mọi cách để chẩn đoán nhanh, chính xác tính chất tổn thương của tai biến mạch máu não như chảy máu não, chảy máu não-màng não, chảy máu màng não, khối máu tụ trong não và nhũn não để xử trí bệnh một cách thật đúng đắn và thích hợp ngay trong giai đoạn cấp tính.
Dùng các phương tiện chẩn đoán để xác định diện tích bị thương tổn, chọn phương pháp điều trị nội khoa hay ngoại khoa phù hợp. Ngoài việc sử dụng kỹ thuật chẩn đoán kinh điển như xét nghiệm dịch não-tủy, điện não đồ, vang não đồ, xạ hình não, chụp động mạch máu… cần chẩn đoán bằng những kỹ thuật mới, có độ chính xác cao như chụp cắt lớp điện toán, cộng hưởng từ não, chụp quét cắt lớp bằng tia proton hoặc tia positon, chụp lấp lánh mạch não…
Đề phòng tai biến mạch máu não
Cần phát hiện sớm và điều trị chứng cao huyết áp, xơ vữa động mạch một cách triệt để; ngoài ra dị dạng mạch máu cũng có thể là nguyên nhân của tai biến mạch máu não.
Nên tránh những yếu tố có thể tạo điều kiện gây tai biến mạch máu não như stress tâm lý, gắng sức quá nhiều, rét lạnh đột ngột, uống rượu, cơn tăng huyết áp…
Khi xuất hiện các dấu hiệu dự báo như nhức đầu nhiều, chóng mặt, ù tai, tê rần chân tay, nổi đom đóm mắt… ở những người có tăng huyết áp, cần phải được chủ động chẩn đoán và xử trí kịp thời, tránh hậu quả tử vong đáng tiết xảy ra